Subscribe:

Ads 468x60px

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

MẸ NGƯỜI BỊ TÙ OAN




Truyện ngắn Mỹ
Người phụ nữ 58 tuổinày mang cái tên mà các cậu bé, cô bé Mỹ thường đặt cho con chuột bạch nhỏ xíunuôi chơi trong lồng sắt: Minnie. Kể ra thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên,vì Minnie không khác con chuột nhỏ bao nhiêu. Trong lồng, chuột miệt mài suốtngày đạp bốn cái chân quay chiếc vòng không ngơi nghỉ. Trên tầng 40 tòa cao ốcsố 56 đường Đông NewYork, Minnie cũng ngày ngày bò bốn chân cọ rửa, lau chùisàn nhà từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Sau đó từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiềucùng ngày lại tới cọ rửa, lau chùi sàn các hộp đêm trên đường số 42. Ngày lạingày cứ vậy, không ngơi nghỉ…
Thẻ đoàn viên"Công đoàn Người Lao công" của Minnie ghi: Minnie Rolls. Da trắng, 58tuổi. Ngụ tại khu Brooklyn. Thế thôi. Thẻ côngđoàn không ghi, giấy căn cước cũng không ghi một sự kiện tày đình trong đờisống riêng của bà: năm 18 tuổi chẳng may rơi vào tay một gã du đãng dưới gầmmột cây cầu nọ ở Brooklyn. Và từ cuộc đụng độbất ưng này đã ra đời một chú bé. Minnie đặt tên con là Till để tưởng nhớ ngườiông nội gốc Áo. Rồi ngay từ đó bắt đầu cuộc đời lao công nhọc nhằn để nuôi thânvà nuôi con. Trong 40 năm đằng đẵng, từ 18 đến 58 tuổi, bà đã lết hai gối trênkhông biết bao nhiêu cây số vuông sàn nhà, chỉ biết rằng hai đĩa xương bánh chèđều mòn vẹt, mười đầu ngón tay thành chai cứng như gỗ. Nhưng vẫn không dámnghỉ, mong sao thằng con không vì đói mà làm liều không bị nay tù mai tội nhưbiết bao đứa cùng cảnh "con hoang". Tội nghiệp Minnie!
Mơ ước chỉ có thế màcũng không thực hiện nổi: Till bị cảnh sát bắt giam. Người mẹ biết con mìnhkhông trộm cắp, không giết người. Bà chắc chắn biết điều bất hạnh đã xảy ra vớicon bà là ở chỗ nó vô phúc rơi vào một viên cảnh sát nhầm lẫn nó với một tênkhác. Hoặc cố tình bắt tội nó để khỏi tốn công truy tìm một tên khác. Chỉ mộtmình người mẹ biết và tin như vậy. Bữa đó nhằm ngày tháng Chạp năm 1932, Tillbảo mẹ:
- Mẹ ơi, xin mẹ tincon. Con làm than suốt ngày trong nhà mình, đâu có lai vãng tới tiệm bán đồ,đâu có biết ai bị giết hồi nào!
Minnie tin. Nên từbữa đó càng ra sức quét rửa, lau chùi không ngơi nghỉ, vì Till để lại cho bàmột cô vợ trẻ và thằng cháu nội mới sinh. Dần dà, một ý nghĩ cháy bỏng nảy ratrong đầu, phát triển thành nỗi ám ảnh day dứt đêm ngày: phải tìm ra hung thủ,giải thoát con khỏi chốn ngục tù oan uổng. Muốn vậy, phải có điều kiện đầutiên: đôla, thật nhiều đôla. Từ nay không thể ngủ tới 3 tiếng mỗi đêm. Cũngkhông được ăn mỗi ngày hai bữa... Nhờ nhịn ăn, nhịn mặc tăng giờ lau chùi cọrửa nên mỗi cuối tuần Minnie lại tới ngân hàng gửi được chín phần mười số tiềnvừa lãnh. Nhân viên thu tiền chăm chú nhìn mặt bà già héo hon trước tuổi, nhìnnhững ngón tay cong queo, khô khốc run rẩy đếm từng tờ giấy bạc, từng đồng xulẻ. Rồi anh nói vui: “Bà là người lao công giàu có nhất NewYork". Thực raMinnie đâu có giàu tiền giàu bạc, mà chỉ giàu hi vọng. Hy vọng kiếm đủ 5.000đôla để cứu con…
Till lãnh án tùchung thân, vào tù từ năm 1932. Đến nay đã 12 năm trôi qua. Minnie đã gom được5.000 đôla. Bà xin nghỉ việc. Nói với các ông bà chủ đang thuê mướn mình:"Tôi nghỉ xả hơi ít bữa". Minnie về căn nhà ổ chuột của mình tại Brooklyn, ở lỳ trong đó. Một mình vò võ. Vì từ lâu rồi côcon dâu đã bỏ cuộc: cô quá trẻ, quá xinh nên không thể thăm nuôi mãi người tuygọi là chồng nhưng đã bị kết án tù chung thân.
Cũng trong thời giannày, ở cuối thành phố NewYork có một nữ phóng viên trẻ măng của tờ báo nhỏnhưng đầy tham vọng nổi danh. Cô phóng viên trẻ đang nóng lòng thi thố tàinăng. Phụ nữ làm phóng viên ở những năm đầu thập niên 40 đòi hỏi phải thật sôinổi, cả gan và tài giỏi hơn bất cứ nghề nào khác. Năm 1944 này, nữ phóng viênElisabeth Falsh mới hai mươi hai tuổi, nhưng đã có đủ những phẩm chất đó. Trongkhi những đồng nghiệp nam giới có những đề tài viết về âm mưu chính trị, ngụplặn trong các vụ ganster, bới móc công đoàn và giành độc quyền về đề tài chiếntranh; Elisabeth có quan niệm khác hẳn họ về nhiệm vụ viết báo. Cô cho rằng tờbáo phải giúp bạn đọc thấu hiểu cảnh ngộ người đồng loại, nhất là những ngườidân bình thường. Cuộc sống thường nhật của họ thiếu gì những điều vĩ đại, nhữngchuyện khác thường, sao cứ đua nhau vung phí giấy mực tả những vụ li hôn quáiđản, những cuộc truy hoan của tỷ phú, những đám cưới hỏi của cô con gái dầu mỏ?
Nghĩ vậy nên sángnào cô cũng chăm chú đọc mục tin vặt của tất cả các tờ báo trong nước. Sáng 20tháng Mười, cô đọc trên tờ Time của Chicagomấy dòng sau đây: “Giải thưởng 5.000 đôla sẽ được trao tặng cho ai giúp pháthiện hung thủ giết một cảnh sát ngày 6 tháng Mười hai năm 1932. Xin gọi điệnthoại số 522-44-16, tiếp suốt ngày". Elisabeth quay số, đinh ninh sẽ nghegiọng một đàn ông tiếp chuyện. Nhưng từ đầu dây bên kia vọng tới tiếng nói nhỏnhẹ run run:
- Minnie Rolls đây,cô muốn gì vậy?
Tội nghiệp Minnie,từ bữa thuê đăng mấy dòng trên báo, bà đã nhận cơ man cú điện thoại của đủ loạingười: lưu manh có, lừa đảo có, thám tử có, mà những kẻ rỗi mồm, tọc mạch vànhân chứng giả cũng không ít. Nên mỗi bận nghe máy bà đều trả lời:
- Xin thứ lỗi, tôikhông có nhiều thời giờ tiếp chuyện lâu, nếu ông (hoặc bà) có bằng chứng gì,xin vui lòng viết thư gửi cho ngài biện lý. Bằng chứng nào đáng giá nhất sẽnhận được tiền thưởng. Minnie không còn cách nào khác. Bà chỉ đủ tiền trả bảykỳ báo. Tuy có 5.000 đôla gửi ngân hàng, nhưng đó là món tiền bất khả xâm phạm.nếu qua một tuần chưa có kết quả, bà sẽ lại đi làm, dành dụm rồi thuê đăng mấyngày nữa. Elisabeth khẩn khoản nài:
- Tôi là nhà báo,thưa bà, xin đừng bỏ máy.
- Cũng phải như mọingười thôi. Tôi không muốn mất thời giờ vì tính tò mò của người khác.
- Tôi muốn được gặpbà. Cách bà theo đuổi chẳng có tích sự gì hết, thật đấy. Đời thủa nhà ai lạitruy tìm tên sát nhân bằng mấy dòng rao vặt trên báo, như thể rao tìm việc làm?
Minnie đáp rằng conngười thường tử tế khi ta cho họ cơ hội và đôla. Bà tận dụng thói ham tiền củacác nhân chứng chứ không ảo tưởng tên giết người sẽ hối lỗi. Elisabeth vẫn vậtnài đòi gặp. Minnie thẳng thừng từ chối:
- Bữa con tôi bị kếtán, báo chí các cô đều im re. Tât cả mọi người không một ai mở miệng. Một cảnhsát bị giết, thế là người ta tóm một thằng bé ngốc nghếch và bắt nó trả giá. Cômuốn biết thì tới hỏi cảnh sát, họ sẽ thuật lại cho mà nghe. Tôi kể sao bằng họđược! Vả lại tôi bận ngập đầu, phải nghe trả lời điện thoại không kịp thở nữakia. Mỗi giờ ngồi nói như thế này, không đi làm là tôi mất đứt nửa đô. Cô thửtính mà coi, tôi phải bỏ ra mười hai năm quần quật không ăn không ngủ mới tíchcóp được 5.000 đôla.
Minnie gác máy.Elisabeth quyết định nhập cuộc, coi đây là sự nghiệp cả cuộc đời mình. Ông chủbáo hỏi cô căn cứ vào đâu cô tin chắc “Mụ già điên" có lý, Elisabeth đáp:
- Vì bà ta tin chắcmình có lý…
Tại đồn cảnh sát,Elisabeth được biết vụ Till xảy ra như sau: Ngày 6 tháng Mười hai năm 1932, mộtcảnh sát vào cửa hàng nọ uống vại bia, đúng lúc hai tên cướp tấn công người thungân. Viên cảnh sát định can thiệp thì bị chúng giết chết rồi biến mất. Bà quảnlý cửa hàng khai Till là một tên trong bọn. Till cãi: ngày đó anh ta chở thanvề nhà, vào đúng giờ đó, vì cô vợ đang chuyển dạ trong bệnh viện, mùa đông nămnay sẽ rất giá buốt, nhà lại có trẻ sơ sinh. Tối đó, có người đàn ông nhìnkhông rõ mặt tới gọi cửa, nói:
- Chúng đang truyđuổi, tôi van anh, hãy giấu tôi đi…
Sau đó, Till khaithêm: người kia cố tình chui xuống hầm nhà nấp một lát rồi đi không nói nănggì. Anh đã kể hết đầu đuôi với chòm xóm, với mẹ rồi với vợ. Nhưng cảnh sát chorằng vợ Till đồng lõa với chồng. Bà quản lý cửa hàng khai: "Đúng nó, khôngsai”. Vậy là đủ để kết tội Till giết người. Chỉ riêng ông thẩm phán điều tra vụviệc coi đây là một sai lầm tư pháp, khốn nỗi ông bị chết đột tử trước khi kịpđòi xem xét lại bản án. Tiền thuê luật sư thì quá cao, vả lại các luật sư đềubiết rõ: bào chữa cho kẻ đã giết nhân viên công lực đang thi hành nhiệm vụ làchuyện chẳng ngon lành gì. Till không bị tử hình là do thiếu bằng chứng: bàquản lý cửa hàng không khẳng định chính tay anh ta đã nổ súng… Nắm được diễnbiến vụ án, Elisabeth cùng với các đồng nghiệp bỏ ra nhiều tháng đi thu thậpthêm lời khai của nhân chứng, tìm gặp từng người trong hội đồng bồi thẩm. Trongkhi Minnie đều đặn quay về với chổi và giẻ lau nhà để lại tiếp tục đăng trênbáo: "Giải thưởng 5.000 đôla sẽ được trao tặng cho ai giúp phát hiệnhung thủ giết một cảnh sát ngày 6 tháng Mười hai năm 1932. Xin gọi điện thoạisố 522-44-16, tiếp suốt ngày".
Elisabeth tới hỏi bàcon chòm xóm của mẹ con Minnie. Họ đều nói:
- Cả buổi chiều bữađó, cậu ấy bốc than đem vào nhà. Sáng sau cậu ấy kể với bọn tôi là có người đànông lạ mặt tới nấp ít lâu trong nhà rồi bỏ đi. Elisabeth tới gặp bà quản lý cửahàng… sau một hồi quanh co cuối cùng bà ta thú thực:
- Mấy chú cảnh sátdặn tôi nhận đúng cậu Till là một tên trong bọn. Thật tình mà nói, cậu ấy hơihao hao giống, tuy có thấp nhỏ hơn… nhưng tôi nhìn đâu có còn tinh lắm…
Ngày 16 tháng Chínnăm 1945, Ủy ban ân xá quyết định thả Till. Anh trở về căn nhà ổ chuột Brooklyn với khoản trợ cấp của chính quyền đền bù chomười hai năm ngồi tù oan uổng. Trở về nhưng mất vợ, mất con, không biết làm mộtnghề gì kiếm sống, vì suốt mười hai năm đó anh chỉ được người ta dạy bảo có mộtđiều duy nhất: "chờ".
Líu ríu bên con bướcra khỏi tòa án, mắt bà Minnie ướt đẫm, hai tay ghì chặt trước ngực một bọc nhonhỏ. Bà tới nhà cô phóng viên Elisabeth Falsh, hai tay nâng gói nhỏ đưa cô:
- 5.000 đôla của conđây, cầm lấy. Con rất xứng đáng được nhận món tiền thưởng này của mẹ.
Elisabeth khăngkhăng từ chối. Giằng co mãi, bà Minnie mới thuận giữ lại cho mình kết quả củamười lăm tiếng quần quật mỗi ngày trong mười hai năm ròng rã. Bài báo củaElisabeth được đăng trên trang nhất với tựa đề: 65.699 giờ cọ rửa để chùi sạchvết nhơ oan ức trên người đứa con.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét